Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

Lời cảm niệm mừng Phật thành đạo – 2013 của TT. Chân Quang

Phật giáo Việt Nam: Lời cảm niệm mừng Phật thành đạo – 2013 của TT. Chân Quang

Lời cảm niệm mừng Phật thành đạo – 2013 của TT. Chân Quang
================================================================================
Thích Chân Quang   on 21/01/2013 11:47:00
 
Từ đêm thành đạo thiêng liêng, Phật mở ra cánh cửa bất tử.
Chúng con bớt quay cuồng theo vô minh tội lỗi vì nhàm chán sinh
tử luân hồi. Chúng con biết đứng lại dù cuộc đời đẩy xô
lôi kéo vì hy vọng theo Phật đi vào cánh cửa bất tử thiêng
liên kia. Bên kia cánh cửa là ánh sáng từ bi vô ngã, bên này cánh
cửa là bóng tối khổ đau điên đảo. Bên kia cánh cửa là bình
an giác ngộ cao siêu, bên này cánh cửa là loạn động mê mờ
lầm chấp.
Chưa có Phật, mỗi ngày chúng con đi trong thù hận ích kỷ ngu si;
theo Phật rồi, mỗi ngày chúng con bước trên đường thương yêu
thứ tha và tỉnh giác. Đời sẽ nhiều hơn tiếng cười, người
sẽ nhiều hơn niềm vui, và lòng sẽ nhiều hơn hạnh phúc. Theo
Phật rồi, từng ngày đi qua là từng ngày chúng con gột rửa lỗi
lầm để tiến dần lên thánh đạo, bỏ dần lại sau lưng những
ảo tưởng mộng mơ dại khờ.
Bình minh nơi cội Bồ đề cũng là bình minh cho nhân loại khi
Đức Phật đắc đạo cao siêu. Trí tuệ từ tâm hồn Người mãi
mãi toả ánh sáng vào đường đi của chúng sinh. Từ bi từ tâm
hồn Người mãi mãi làm đảo cồn cho chúng sinh nương tựa. Biết
bao đạo lý nhiệm mầu nở hoa rực rỡ thành các bài kinh thiêng
bất tuyệt. Biết bao lời dạy cao quý trở thành lẽ sống của
cuộc đời chúng con. Dù chưa giải thoát, nhưng niềm tin vào tuệ
giác của Phật đã dẫn dắt chúng con đi trong an vui kiên định.
Xin đại chúng đọc theo những vần kệ sau:
Có những điều vẫn làm ta xúc động
Như tình yêu với cuộc sống bao la
Sáng tinh mơ chim rộn rã hót ca
Chiều lãng đãng trăng ghé qua đầu núi
Thân phận người đôi khi nhiều buồn tủi
Cả cuộc đời theo đuổi bóng phù du
Hạnh phúc nào như lá thắm ngày thu
Điều được mất như mây mù xa vắng
Tình con người mau phai như giọt nắng
Lời yêu thương làm thêm nặng lòng nhau
Ai đã từng đi qua cảnh bể dâu
Hiểu nhiều lắm đời khổ đau là thế
Con quỳ xuống nghe trái tim nhỏ lệ
Chốn Phật đài là cội rễ từ bi
Lời kinh thiêng, lòng vơi bớt nghĩ suy
Xin nương náu quy y Người mãi mãi
Dưới Phật đài con trẻ thơ khờ dại
Xin theo Người là ánh thái dương soi
Lòng nở hoa từ đạo lý tinh khôi
Thành trái ngọt an vui và hạnh phúc
Vì có Phật, ai ơi đừng ngã gục
Sau đêm dài sẽ đến lúc bình minh
Đường luân hồi qua vạn nẻo tử sinh
Phật đứng đó là bóng hình từ ái
Phật đứng đó lòng từ bi đợi mãi
Những đứa con quay lại bến bờ vui
Con si mê lầm lỗi mãi không thôi
Nên chậm bước đi về nơi giải thoát
Nhưng sâu thẳm lòng chúng con khao khát
Được tựa nương nơi bóng mát từ bi
Vầng linh quang soi bước chúng con đi
Lời răn dạy như vì sao lấp lánh
Lòng kính Phật không có gì so sánh
Dẫu cuộc đời có ấm lạnh đổi thay
Rất thiêng liêng trong tận trái tim này
Là hình bóng Như Lai trùm pháp giới
Mỗi một ngày là một mùa xuân mới
Kể từ khi con đến với đạo thiêng
Bỏ dần đi những mộng tưởng tư riêng
Vơi bớt hẳn những muộn phiền phi lý
Nếu ai hỏi cái gì là cao quý
Xin trả lời là chân lý Phật đà
Thế cái gì là mầu nhiệm sâu xa
Xin thưa rõ là đoá hoa chánh pháp
Giữa biển đời trong mưa sa bão táp
Lời kinh thiêng niềm ấm áp bao la
Chở che ta qua mưa nắng đường xa
Đưa ta đến chốn quê nhà tươi sáng
Nhưng đạo cả không tính bằng năm tháng
Mà tính bằng cả nghìn vạn kiếp người
Phải tinh cần khổ nhọc chẳng buông lơi
Mới có thể vượt dòng đời tăm tối
Không lợi ích cho những ai nóng vội
Muốn băng đường vượt lối để đi nhanh
Định chưa sâu đạo đâu dễ đắc thành
Phước chưa  lớn rồi cũng đành đứng lại
Để có được bốn chín ngày vĩ đại
Biết bao đời Phật từng trải khó khăn
Công đức lành gây tạo chẳng tiếc thân
Hạnh tinh tấn là vô vàn cao vợi
Các tầng trời reo vang lời ca ngợi
Khi đón chào bình minh mới vừa sang
Là bình minh của ánh đạo vinh quang
Sự giác ngộ huy hoàng nơi Đức Phật
Sự rung động lan truyền trong cõi đất
Hoa trời rơi hương ngây ngất cúng dường
Vầng hào quang chiếu toả khắp mười phương
Đấng Chánh Giác phi thường đêm thành đạo
Con quỳ xuống hiểu chuyện đời hư ảo
Chúng sinh chìm trong điên đảo si mê
Kể từ đây con có lối đi về
Theo chân Phật cội Bồ Đề rực sáng
Theo chân Phật cả bầu trời quang đãng
Mây từ bi che mát cõi nhân gian
Suối tình thương qua sa mạc khô khan
Cây sẽ mọc, đời sẽ xanh tươi thắm
Niềm tin kính trong con là sâu đậm
Như biển khơi, như núi thẳm bao la
Mãi nghìn đời yêu kính Phật thiết tha
Nguyện tất cả về trong nhà chánh pháp
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Quay về


Quay Về Cập nhật: (29/08/2014 14:52 PM) Click Xem hình lớn ...“Cái làm tôi no lòng không là mỹ vị cao sang mà chỉ là gạo trắng, canh cà của mẹ. Cái tôi cần không là áo hoa thêu đẹp mà chỉ cần áo vải, quần sơ. Cái tôi cần không là nhà cao, xe đẹp mà chỉ cần nhà quê, vách nhỏ và được chạy trên cánh đồng quê nội bằng chính đôi chân mình”... Cuộc sống xã hội phát triển, đời sống vật chất được nâng cao, con người như đã bị cuốn hút vào các vật vô tri, tiện nghi và đầu tư hết tâm lực của mình để chạy theo nó. Cổ đức có dạy: “Cái ta muốn thì nhiều, cái ta cần thì ít”. Con người đã nuôi dưỡng lòng ham muốn vật chất, chạy theo dục lạc mà quên mất cái nguồn gốc tâm hồn thanh cao của mình và cũng là cội nguồn tâm tánh của chính mình. Mỗi con người ai cũng có một ngôi nhà, một quê hương, nguồn cội mà nhiều người chưa nhận thấy được. Sống như một cái cây chỉ biết phát triển cành lá cho sum sê mà quên mất việc nuôi dưỡng rễ thân bám chặt nơi lòng đất. Có một em nhỏ được sinh ra và lớn lên ở một làng quê nghèo. Khi còn bé, em nhận được sự yêu thương của nhiều người, của cha, của mẹ, của anh chị và cả bà con cô bác nữa. Em được nuôi dưỡng và lớn lên từ những cánh đồng, từ bát cơm rau, canh cà của mẹ và được sống, được chơi với thằng Tèo, thằng Tí bên nhà. Buổi trưa thì được tắm mình dưới dòng sông có hàng dừa râm bóng. Em có thể bằng đôi chân đất mà chạy rảo trên cánh đồng cỏ xanh. Còn có vườn mít, vườn xoài của bác ba, bác bảy để em mắc võng nghỉ trưa vào những buổi trưa hè. Quê của em là một vùng quê nghèo, mọi người thì ít học, từ sáng đến tối họ chỉ ra ruộng hay làm vườn. Cách sống bình thường, giản đơn và lời nói ngắn gọn, chất phác, thật dạ. Khi vừa chớm lớn độ mười bảy đôi mươi, em trở thành một chàng trai gần giống như người lớn. Chàng trai tỏ ra hiểu biết và đi tìm những gì mới lạ như: quần áo đẹp, xe đẹp hay vàng bạc - những thứ mà ở quê mình không có. Từ đó, chàng trai muốn đổi mới mình, và từ giã quê nghèo bước lên thành phố để đi tìm những gì mình mong ước. Chàng trai quê chân phèn nứt nẻ bước đi trong lòng thành phố nguy nga, tráng lệ. Chàng nổi lên bao mơ ước và hy vọng. Chàng bắt đầu mưu sinh, lặn lội, dần dần vượt qua các chướng ngại để có được đồng tiền. Ngày qua ngày, cuộc sống đã cho chàng kinh nghiệm và đồng tiền cũng làm chàng thêm già dặn. Bằng công sức theo đuổi, chàng đã dần có xe, tiền bạc, nhà cửa và những người bạn, cũng như mọi thứ tiện nghi mà người thành phố có được. Nhưng trong lòng chàng chưa bao giờ thấy mình đã đủ. Phong cách thời đại, vòng xoáy thời trang chưa có lúc dừng; đã có xe tốt lại muốn được xe tốt hơn, đã có đồ mới chẳng bao lâu nó lại lỗi thời. Những thứ ấy đã kéo chàng đi mãi! Đi mãi! Chàng trai vui chơi trong quán rượu, giải trí với tốc độ, nhà hát… Ngày thì miệt mài với công việc, đêm thì ráng sức để vui chơi… Rồi một buổi chiều nọ, chàng mệt mỏi với công việc, chàng thả bộ trên một con đường nhỏ và dừng lại ở một quán rượu bên hè. Đối diện chàng là một ngôi nhà nhỏ đơn sơ. Trong nhà dường như là có một gia đình đang ngồi dùng cơm bên ánh đèn nhỏ. Lặng nhìn, chàng như cảm thấy được sự an bình, hạnh phúc của họ khi ngồi lại với nhau bên một mâm cơm đơn giản. Chàng cảm thấy mình là người cô độc giữa đời. Chàng nhận ra mình đã lâu, lâu lắm rồi, bỏ mất những thức sống an lành mà mình dường như lãng quên. Bây giờ, trong tâm thức của chàng tự tuôn ra những hồi ức, hình ảnh của làng quê, của thời thơ ấu. Những tư tưởng, hướng đi của chàng ngày trước như bị thay đổi và muốn trở về, muốn quay lại với cảnh làng quê. Chàng cảm thấy có chút mỏi mệt với những cái mình ao ước. Chàng có những ý tưởng muốn vứt bỏ và quay về với thanh lạc. “Cái làm tôi no lòng không là mỹ vị cao sang mà chỉ là gạo trắng, canh cà của mẹ. Cái tôi cần không là áo hoa thêu đẹp mà chỉ cần áo vải, quần sơ. Cái tôi cần không là nhà cao, xe đẹp mà chỉ cần nhà quê, vách nhỏ và được chạy trên cánh đồng quê nội bằng chính đôi chân mình”. Bây giờ, chàng đã nhận thức được cái gì muốn, cái gì cần, cái gì an bình, cái gì nóng đốt. Cái mà chàng mới chợt tỉnh và nhận ra là một chớp sáng của tâm hồn tĩnh lặng, sáng suốt, giống như ly nước đục để lặng yên thì các bẩn nhơ cũng dần được lắng xuống. Chàng hiểu rõ hơn về mọi thứ mình đang có, chàng sống với cuộc đời bằng một cái nhìn sáng suốt, sống ít tham cầu và biết đủ (thiểu dục tri túc). Biết đồng tiền chỉ để trao qua đổi lại. Biết quần áo chỉ để che thân. Biết xe cộ chỉ là phương tiện đi lại. Biết nhà cửa chỉ để tránh nắng, khỏi mưa. Chàng sống thanh nhàn, không mong cầu, biết đủ và sống chân thật, trọn vẹn với những gì mình đang có. Chàng bắt đầu với cuộc sống mới. Chàng cảm thấy an ổn và hạnh phúc nơi chính mình. Hạnh phúc đến với chàng khi chỉ dùng bữa cơm rau đơn giản vì chàng cảm nhận được hương vị dẻo ngọt trong từng hạt cơm khi có huynh đệ, có cha mẹ, có gia đình và quê hương. Hạnh phúc của chàng khi thả bộ bên cạnh dòng sông xanh, trên con đường làng có những hàng cây hay những cánh đồng gió nhẹ. Trong từng bước chân, trong từng hơi thở, chàng cảm nhận được cái trong sạch và sự an bình. Là người ai cũng có gia đình, cũng có quê hương, cũng có cội gốc bình yên để quay về. Chỉ cần có được cái nhìn sáng suốt và sống chân thật, biết nâng niu những gì mình đang có, thì hạnh phúc sẽ có mặt ngay nơi mỗi người. Tâm Liêm

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Thương cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại

(ĐSPL) - Câu chuyện ông cụ 84 tuổi ở Nghệ An phải đạp xe vượt hơn 220km đến Thanh Hóa để bảo hành chiếc điện thoại chỉ hơn 200 nghìn đồng khiến cộng đồng mạng vô cùng cảm động. Câu chuyện cảm động được đăng tải trên trang Facebook của cửa hàng điện thoại T.P. Vào 8h sáng ngày 2/7, cửa hàng điện thoại Tùng Phương (ở TP.Thanh Hóa) đón tiếp một khách hàng đặc biệt. Người mở hàng chính là ông cụ ông Nguyễn Đức Trinh, 84 tuổi, trú tại Đội 3 Nông Trang, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An đến bảo hành chiếc điện thoại trị giá 200 ngàn đồng. Được biết, cụ ông mua chiếc điện thoại mang nhãn hiệu Avio A112i ở Hải Phòng. Sau 2 ngày sử dụng, chiếc điện thoại bỗng nhiên bị sập nguồn. Thương cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại - Ảnh 1 Cụ Nguyễn Đức Trinh 84 tuổi và chiếc xe đạp đồng hành cùng cụ trên chặng đường 220km để sửa chiếc điện thoại. Vì quá tiếc chiếc điện thoại phải tích cóp mới mua được, cụ ông 84 tuổi này đã vất vả đạp xe 220km từ Nghệ An ra Thanh Hóa với hy vọng sửa được điện thoại. Cụ chia sẻ, cụ đã vào rất nhiều cửa hàng ở Nghệ An nhưng họ đều từ chối không nhận bảo hành cho cụ. Thương cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại - Ảnh 1 Hành trang đi đường của cụ Trịnh. Sau đó, cụ xem trên thẻ bảo hành chỉ có ở Thanh Hóa - Hà Nội - Hải Phòng nên cụ chọn Thanh Hóa cho gần. Hành trang vượt đường xa của cụ ông khá đơn giản. Cụ chỉ có một chiếc xe đạp buộc lốp, cái đèn pin và cái túi bóng đựng cơm, vài miếng bánh đa... Cụ nói là đi từ 8h sáng ngày 30/6 đến 6h sáng ngày 2/7 mới đến nơi. Quá thương cảnh cụ ông, chúng tôi đã tặng cụ một chiếc máy điện thoại Nokia N105 mới kèm sim và biếu cụ một chút tiền rồi giúp cụ ra bến để bắt xe về quê. Thương cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại - Ảnh 1 Nhân viên cửa hàng đang kiểm tra điện thoại cho cụ Trịnh. Thương cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại - Ảnh 1 Đại diện cửa hàng T.P trao tặng món quà cho cụ Trịnh đi đường. Theo như chia sẻ của cửa hàng bảo hành cho cụ, hầu hết các cửa hàng điện thoại ở Nghệ An từ chối bảo hành cho cụ là do họ không kinh doanh hãng điện thoại này. Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều cửa hàng ở Nghệ An bán sản phẩm cùng hãng với điện thoại của cụ nhưng không hiểu tại sao lại không nhận bảo hành cho cụ… Câu chuyện sau khi được đăng tải đã nhận được rất nhiều sự quan tâm và chia sẻ. Hầu hết các thành viên cộng đồng mạng đều cảm động trước câu chuyện của ông cụ và nghĩa cử cao đẹp của cửa hàng điện thoại T.P. Thương cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại - Ảnh 1 Câu chuyện cụ ông 84 tuổi đạp xe 220km để sửa chiếc điện thoại đã khiến các thành viên trên cộng đồng mạng thực sự xúc động. Bạn Thanh Tùng xúc động chia sẻ: “Nhìn ông cụ thấy muốn khóc quá, cả một đời lam lũ chân chất tiết kiệm từng đồng tiền cắc bạc, bản chất vốn quý của những con người Việt Nam. Thương quá, mong cụ về nhà nhanh và luôn khỏe mạnh”. Thành viên Hien Nguyen Thi Thu cảm động nhận xét: “Một hành động cao cả, cảm ơn tập thể công ty Điện Thoại T.P. Chúc cửa hàng may mắn và thành công”. Bạn Trần Quý bình luận: “Ông cụ đã 84 tuổi đạp xe ra Thanh Hoá, khâm phục cụ và cũng hoan nghênh cửa hàng đã có hành động hỗ trợ cụ. Thật cảm động chúc cụ vui khỏe, chúc của hàng phát đạt, thịnh vượng”. Thành viên có nickname ReSign Rsg viết: “Đọc bài báo mới thấy tình người còn đẹp và đời còn đẹp”. Thành viên Sông Quê xúc động: “Cám ơn cửa hàng T.P nha, tình nghĩa lắm dù hành động giản đơn”. MINH KHÔI

Hoa mặt trời 2 Viet Trinh

Hoa Mặt Trời Chương trình Hoa Mặt Trời kỳ 2.Hoa Mặt Trời Chương trình Hoa Mặt Trời kỳ 2. Cập nhật: (27/08/2013 01:30 AM) Click Xem hình lớn Sáng ngày 26/08/2013 (nhằm ngày 20 tháng 7 năm Quý Tỵ) nhân khóa tu Phật thất 74, BTC khóa tu tiếp tục thực hiện chương trình Hoa Mặt Trời 2, nhân vật chính là diễn viên – đạo diễn Việt Trinh. Chương trình có sự chứng minh của Thượng tọa trụ trì Thích Chân Tính và hơn 2500 Phật tử dự tu. Ngoài ra một số bạn bè thân thiết với Việt Trinh cũng đã đến tham dự. Thời điểm 1991 – 1996, Việt Trinh là một cái tên không hề xa lạ với khán giả màn ảnh nhỏ qua hàng loạt những vai diễn trong các phim như Ngọc trong đá, Lệnh truy nã, Sương gió biên thùy, Người đẹp Tây Đô,... Vào thời vàng son của nghiệp diễn viên, tên tuổi của cô là sự lựa chọn hàng đầu cho những nhà sản xuất phim. Ảnh lịch của cô được người hâm mộ mua về trịnh trọng treo trong nhà như một sự thể hiện lòng ngưỡng mộ dành cho “cô gái đẹp có đôi mắt buồn”. Sau một thời gian, người ta bỗng thấy vắng bóng Việt Trinh trên màn ảnh nhỏ, khán giả thương nhớ cô, còn trong giới giải trí thì lại xôn xao những tin đồn ác ý. Thời gian gần đây, Việt Trinh bắt đầu xuất hiện trở lại trong một vai trò mới cùng với những những dự án làm phim, trong đó có những bộ phim Phật giáo. Sự trở lại lần này của đạo diễn Việt Trinh có gì khác với kiều nữ điện ảnh Việt Trinh của những năm 90? Đến với chương trình Hoa Mặt Trời lần này, cô đã chia sẻ chân thành với quý Phật tử về cuộc sống, hào quang, sai lầm và sự giác ngộ của cô trên con đường hướng đến Chân – Thiện – Mỹ. 1. Ấu thơ và khát khao làm diễn viên Ba mẹ chia tay từ khi Việt Trinh còn bé. Người mẹ dù rất mực thương yêu, mong muốn bù đắp tình thương cho con, thế nhưng thẳm sâu trong lòng cô vẫn luôn khao khát được có cha như bao đứa trẻ khác. Sự thiếu vắng tình cảm người cha đã làm tính cách cô càng thêm mạnh mẽ. Nhìn thấy mẹ vất vả nuôi 7 anh em ăn học, cô mong sao mình lớn thật mau để đôi tay của mình có thể che chở, đỡ đần cho mẹ. Những tháng năm khó khăn ấy cũng đã nung nấu trong cô ước muốn thay đổi số phận. Vào năm học lớp 7, khi đứng xem đoàn làm phim làm việc trong con hẻm nhỏ nơi cô sinh sống, một diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ đã gọi cô đến và nói “Con nhỏ này mai mốt làm diễn viên”. Câu nói đó đã vô tình gieo vào đầu cô khao khát mãnh liệt – trở thành diễn viên. Mặc dù gia đình hướng đi theo ngành sư phạm nhưng cô nhất quyết đem cầm trang sức để có tiền đi học làm diễn viên sau khi đã trúng tuyển trong một cuộc thi. Từ đó, dần dần xuất hiện một Việt Trinh mà khán giả biết đến ngày hôm nay. 2. Hào quang và những tham, sân, si Sau 2 năm mờ nhạt với những vai quần chúng, những vai nô tỳ không tên, Việt Trinh đã được khán giả và đạo diễn chú ý. Từ đây, nghiệp diễn viên của cô bắt đầu thăng hoa, sự nổi tiếng và ánh hào quang cũng theo đó mà đến một cách nhanh chóng. Cái tên Việt Trinh trở nên ăn khách hơn bao giờ hết, cô đang ở trên đỉnh cao của vinh quang trong nghề diễn. Thế nhưng, nổi tiếng quá sớm ở độ tuổi đôi mươi đã khiến cô trở thành một ngôi sao tự cao, kênh kiệu. Cô chia sẻ, sự thành công đến quá nhanh đã làm thay đổi con người cô, và tự nhận rằng vào những năm 1991 – 1997 cô là người khó ưa. Điển hình là việc cô bắt đầu “trả thù” những người trước kia đã có thái độ không tốt với mình bằng cách làm khó họ. Cô tự cho mình được quyền đi sớm về trễ trong công việc, được quyền nhận vai rồi bỏ ngang. Vì những sân, si và sự ngã mạn quá lớn, cô ganh tỵ, đố kỵ với những người đẹp hơn mình, giàu hơn, đi xe xịn hơn mình. Và với sự háo thắng của tuổi trẻ, cô càng tìm cách thể hiện mình là người có tiền trong mắt bạn bè. Vì vậy, những tháng năm sống trong hư vinh của sự nổi tiếng cũng là khoảng thời gian cô tự mình gieo những nhân xấu cho cái quả phải trả trong tương lai mà không hề hay biết. 3. Vấp ngã và sa đọa Chính những sân, si, ngã mạn của tuổi trẻ đã mở đường cho Việt Trinh bước vào một quãng đời nhiều đau khổ và tuyệt vọng. Những cú sốc lớn trong đời, sự quay lưng của khán giả và nhà sản xuất đã đẩy cô đến trầm cảm, bế tắc. Cô như người mất phương hướng, tự nhốt mình trong phòng và cuối cùng là tìm quên trong hơi men. Nghiện rượu làm thân thể cô hao mòn, tinh thần kiệt quệ. Cô oán trách cuộc đời đã mang đến cho cô đau khổ, có lúc tưởng chừng như muốn chết đi. 4. Đứng dậy và giác ngộ Lẽ thường tình, khi khổ đau cùng cực không còn chỗ bấu víu, người ta mới nhớ đến chùa; rơi vào cơn tuyệt vọng trong đường hầm không có ánh sáng, người ta mới nghĩ đến đức Phật. Những cú sốc lớn trong cuộc đời (anh trai mất trong một tai nạn giao thông, mẹ cũng mất vì quá đau buồn) đã khiến cô nhận ra cuộc sống này rất vô thường. Cô cố gắng sống một cách khác đi, làm từ thiện nhiều hơn. Ban đầu chỉ là cầu xin cho mẹ, anh trai được siêu thoát, cho bản thân mình được bớt khổ. Dần dần những lời Phật dạy thấm vào suy nghĩ, cô liên hệ những lời Phật dạy vào sự vấp ngã trong đời mình và thấy lời Phật dạy áp dụng vào cuộc sống rất tuyệt vời và không hề mê tín. Cô đã biết quay trở về với chính mình, nhìn nhận những lỗi lầm trong quá khứ. Qua đó cô cũng đã chia sẻ với những bạn trẻ : “Nếu trong cuộc sống có được sự may mắn thành công trong công việc thì phải chánh niệm, không ngủ quên trong chiến thắng, lựa chọn cái đúng để làm, nếu không, hậu quả nhận lại sẽ đau khổ vô cùng”. Đến với đạo Phật, Việt Trinh đã cảm nhận những đau khổ đến với mình là do mình tạo ra, mỗi ngày đều dành thời gian để soi xét lại bản thân, loại bỏ những chủng tử xấu trong tâm thức, phát triển tánh thiện trong con người mình. Và câu nói tâm đắc của cô “Hận thù không thể xóa được hận thù, chỉ có lòng từ bi mới hóa giải được khổ đau”. Trong công việc, cô luôn chánh niệm trong từng việc mình làm, luôn sống và hành theo lời dạy của đức Phật. Ước nguyện bây giờ của cô là được làm những bộ phim mang thông điệp của Phật giáo, điển hình là cô đã cho ra mắt phim “Duyên trần thoát tục”, “Trở về 1 – 2 – 3”,... Mới đây nhất, cô vừa hoàn thành xong bộ phim “Mẹ ơi, con đã về”. Cô hy vọng bộ phim sẽ làm thay đổi suy nghĩ và hành động của những bạn trẻ đối với mẹ. Qua cuộc trò chuyện, cô cũng gửi gắm đến quý Phật tử một thông điệp chân thành từ chính sự chiêm nghiệm cuộc sống của mình: Trong cuộc sống chúng ta gặp rất nhiều sự cạnh tranh và những bon chen. Chính trong những điều đó, chúng ta phải thực hành chánh niệm, đừng vì chiến thắng hay lợi nhuận của mình mà làm người khác đau khổ. Hãy sống, làm việc và thực hành theo chánh đạo, tránh gây những nhân xấu để cuộc sống sau này được tốt đẹp hơn. Cuối chương trình, Thượng tọa Thích Chân Tính cũng đã có đôi điều nhắc nhở đến toàn thể quý Phật tử. Thông qua câu chuyện cuộc đời diễn viên Việt Trinh, thầy mong muốn Phật tử thấy được sự đổi thay của Việt Trinh trong quá khứ và hiện tại, từ đó có suy nghĩ làm sao để giáo pháp của đức Phật được lan rộng. Đó là trách nhiệm của cả người xuất gia và tại gia. Chúng ta muốn cuộc sống này được tốt đẹp, nên phổ cập Phật pháp đến nhiều người. Thầy ví mỗi người như là một chiếc thuyền trên biển đời, và đương nhiên sẽ có sóng gió vùi dập làm con thuyền mất phương hướng. Nhưng nay con thuyền của chúng ta đã có phương để hướng đến, đó là con đường giác ngộ giải thoát của đức Phật. Vậy nên mỗi người hãy là một hoa tiêu giỏi để lèo lái con thuyền đời mình đi đến bờ an vui, hạnh phúc. Kết thúc chương trình, đã có nhiều lời trầm trồ nội dung chương trình rất hay. Mọi người đều tràn ngập trong niềm hỷ lạc. Trên đây chỉ là một số nét chính trong câu chuyện về con đường đi đến Phật pháp của diễn viên – đạo diễn Việt Trinh. Nội dung chi tiết chương trình sẽ được Ban biên tập website cập nhật trong thời gian sớm nhất. Kính mời quý vị đón xem! Dưới đây là những hình ảnh ghi nhận: Cập nhật: (27/08/2013 01:30 AM) Click Xem hình lớn Sáng ngày 26/08/2013 (nhằm ngày 20 tháng 7 năm Quý Tỵ) nhân khóa tu Phật thất 74, BTC khóa tu tiếp tục thực hiện chương trình Hoa Mặt Trời 2, nhân vật chính là diễn viên – đạo diễn Việt Trinh. Chương trình có sự chứng minh của Thượng tọa trụ trì Thích Chân Tính và hơn 2500 Phật tử dự tu. Ngoài ra một số bạn bè thân thiết với Việt Trinh cũng đã đến tham dự. Thời điểm 1991 – 1996, Việt Trinh là một cái tên không hề xa lạ với khán giả màn ảnh nhỏ qua hàng loạt những vai diễn trong các phim như Ngọc trong đá, Lệnh truy nã, Sương gió biên thùy, Người đẹp Tây Đô,... Vào thời vàng son của nghiệp diễn viên, tên tuổi của cô là sự lựa chọn hàng đầu cho những nhà sản xuất phim. Ảnh lịch của cô được người hâm mộ mua về trịnh trọng treo trong nhà như một sự thể hiện lòng ngưỡng mộ dành cho “cô gái đẹp có đôi mắt buồn”. Sau một thời gian, người ta bỗng thấy vắng bóng Việt Trinh trên màn ảnh nhỏ, khán giả thương nhớ cô, còn trong giới giải trí thì lại xôn xao những tin đồn ác ý. Thời gian gần đây, Việt Trinh bắt đầu xuất hiện trở lại trong một vai trò mới cùng với những những dự án làm phim, trong đó có những bộ phim Phật giáo. Sự trở lại lần này của đạo diễn Việt Trinh có gì khác với kiều nữ điện ảnh Việt Trinh của những năm 90? Đến với chương trình Hoa Mặt Trời lần này, cô đã chia sẻ chân thành với quý Phật tử về cuộc sống, hào quang, sai lầm và sự giác ngộ của cô trên con đường hướng đến Chân – Thiện – Mỹ. 1. Ấu thơ và khát khao làm diễn viên Ba mẹ chia tay từ khi Việt Trinh còn bé. Người mẹ dù rất mực thương yêu, mong muốn bù đắp tình thương cho con, thế nhưng thẳm sâu trong lòng cô vẫn luôn khao khát được có cha như bao đứa trẻ khác. Sự thiếu vắng tình cảm người cha đã làm tính cách cô càng thêm mạnh mẽ. Nhìn thấy mẹ vất vả nuôi 7 anh em ăn học, cô mong sao mình lớn thật mau để đôi tay của mình có thể che chở, đỡ đần cho mẹ. Những tháng năm khó khăn ấy cũng đã nung nấu trong cô ước muốn thay đổi số phận. Vào năm học lớp 7, khi đứng xem đoàn làm phim làm việc trong con hẻm nhỏ nơi cô sinh sống, một diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ đã gọi cô đến và nói “Con nhỏ này mai mốt làm diễn viên”. Câu nói đó đã vô tình gieo vào đầu cô khao khát mãnh liệt – trở thành diễn viên. Mặc dù gia đình hướng đi theo ngành sư phạm nhưng cô nhất quyết đem cầm trang sức để có tiền đi học làm diễn viên sau khi đã trúng tuyển trong một cuộc thi. Từ đó, dần dần xuất hiện một Việt Trinh mà khán giả biết đến ngày hôm nay. 2. Hào quang và những tham, sân, si Sau 2 năm mờ nhạt với những vai quần chúng, những vai nô tỳ không tên, Việt Trinh đã được khán giả và đạo diễn chú ý. Từ đây, nghiệp diễn viên của cô bắt đầu thăng hoa, sự nổi tiếng và ánh hào quang cũng theo đó mà đến một cách nhanh chóng. Cái tên Việt Trinh trở nên ăn khách hơn bao giờ hết, cô đang ở trên đỉnh cao của vinh quang trong nghề diễn. Thế nhưng, nổi tiếng quá sớm ở độ tuổi đôi mươi đã khiến cô trở thành một ngôi sao tự cao, kênh kiệu. Cô chia sẻ, sự thành công đến quá nhanh đã làm thay đổi con người cô, và tự nhận rằng vào những năm 1991 – 1997 cô là người khó ưa. Điển hình là việc cô bắt đầu “trả thù” những người trước kia đã có thái độ không tốt với mình bằng cách làm khó họ. Cô tự cho mình được quyền đi sớm về trễ trong công việc, được quyền nhận vai rồi bỏ ngang. Vì những sân, si và sự ngã mạn quá lớn, cô ganh tỵ, đố kỵ với những người đẹp hơn mình, giàu hơn, đi xe xịn hơn mình. Và với sự háo thắng của tuổi trẻ, cô càng tìm cách thể hiện mình là người có tiền trong mắt bạn bè. Vì vậy, những tháng năm sống trong hư vinh của sự nổi tiếng cũng là khoảng thời gian cô tự mình gieo những nhân xấu cho cái quả phải trả trong tương lai mà không hề hay biết. 3. Vấp ngã và sa đọa Chính những sân, si, ngã mạn của tuổi trẻ đã mở đường cho Việt Trinh bước vào một quãng đời nhiều đau khổ và tuyệt vọng. Những cú sốc lớn trong đời, sự quay lưng của khán giả và nhà sản xuất đã đẩy cô đến trầm cảm, bế tắc. Cô như người mất phương hướng, tự nhốt mình trong phòng và cuối cùng là tìm quên trong hơi men. Nghiện rượu làm thân thể cô hao mòn, tinh thần kiệt quệ. Cô oán trách cuộc đời đã mang đến cho cô đau khổ, có lúc tưởng chừng như muốn chết đi. 4. Đứng dậy và giác ngộ Lẽ thường tình, khi khổ đau cùng cực không còn chỗ bấu víu, người ta mới nhớ đến chùa; rơi vào cơn tuyệt vọng trong đường hầm không có ánh sáng, người ta mới nghĩ đến đức Phật. Những cú sốc lớn trong cuộc đời (anh trai mất trong một tai nạn giao thông, mẹ cũng mất vì quá đau buồn) đã khiến cô nhận ra cuộc sống này rất vô thường. Cô cố gắng sống một cách khác đi, làm từ thiện nhiều hơn. Ban đầu chỉ là cầu xin cho mẹ, anh trai được siêu thoát, cho bản thân mình được bớt khổ. Dần dần những lời Phật dạy thấm vào suy nghĩ, cô liên hệ những lời Phật dạy vào sự vấp ngã trong đời mình và thấy lời Phật dạy áp dụng vào cuộc sống rất tuyệt vời và không hề mê tín. Cô đã biết quay trở về với chính mình, nhìn nhận những lỗi lầm trong quá khứ. Qua đó cô cũng đã chia sẻ với những bạn trẻ : “Nếu trong cuộc sống có được sự may mắn thành công trong công việc thì phải chánh niệm, không ngủ quên trong chiến thắng, lựa chọn cái đúng để làm, nếu không, hậu quả nhận lại sẽ đau khổ vô cùng”. Đến với đạo Phật, Việt Trinh đã cảm nhận những đau khổ đến với mình là do mình tạo ra, mỗi ngày đều dành thời gian để soi xét lại bản thân, loại bỏ những chủng tử xấu trong tâm thức, phát triển tánh thiện trong con người mình. Và câu nói tâm đắc của cô “Hận thù không thể xóa được hận thù, chỉ có lòng từ bi mới hóa giải được khổ đau”. Trong công việc, cô luôn chánh niệm trong từng việc mình làm, luôn sống và hành theo lời dạy của đức Phật. Ước nguyện bây giờ của cô là được làm những bộ phim mang thông điệp của Phật giáo, điển hình là cô đã cho ra mắt phim “Duyên trần thoát tục”, “Trở về 1 – 2 – 3”,... Mới đây nhất, cô vừa hoàn thành xong bộ phim “Mẹ ơi, con đã về”. Cô hy vọng bộ phim sẽ làm thay đổi suy nghĩ và hành động của những bạn trẻ đối với mẹ. Qua cuộc trò chuyện, cô cũng gửi gắm đến quý Phật tử một thông điệp chân thành từ chính sự chiêm nghiệm cuộc sống của mình: Trong cuộc sống chúng ta gặp rất nhiều sự cạnh tranh và những bon chen. Chính trong những điều đó, chúng ta phải thực hành chánh niệm, đừng vì chiến thắng hay lợi nhuận của mình mà làm người khác đau khổ. Hãy sống, làm việc và thực hành theo chánh đạo, tránh gây những nhân xấu để cuộc sống sau này được tốt đẹp hơn. Cuối chương trình, Thượng tọa Thích Chân Tính cũng đã có đôi điều nhắc nhở đến toàn thể quý Phật tử. Thông qua câu chuyện cuộc đời diễn viên Việt Trinh, thầy mong muốn Phật tử thấy được sự đổi thay của Việt Trinh trong quá khứ và hiện tại, từ đó có suy nghĩ làm sao để giáo pháp của đức Phật được lan rộng. Đó là trách nhiệm của cả người xuất gia và tại gia. Chúng ta muốn cuộc sống này được tốt đẹp, nên phổ cập Phật pháp đến nhiều người. Thầy ví mỗi người như là một chiếc thuyền trên biển đời, và đương nhiên sẽ có sóng gió vùi dập làm con thuyền mất phương hướng. Nhưng nay con thuyền của chúng ta đã có phương để hướng đến, đó là con đường giác ngộ giải thoát của đức Phật. Vậy nên mỗi người hãy là một hoa tiêu giỏi để lèo lái con thuyền đời mình đi đến bờ an vui, hạnh phúc. Kết thúc chương trình, đã có nhiều lời trầm trồ nội dung chương trình rất hay. Mọi người đều tràn ngập trong niềm hỷ lạc. Trên đây chỉ là một số nét chính trong câu chuyện về con đường đi đến Phật pháp của diễn viên – đạo diễn Việt Trinh. Nội dung chi tiết chương trình sẽ được Ban biên tập website cập nhật trong thời gian sớm nhất. Kính mời quý vị đón xem! Dưới đây là những hình ảnh ghi nhận:

Hoa mặt trời 5

Hoa Mặt Trời Chương trình Hoa Mặt Trời kỳ 5 Cập nhật: (19/08/2014 13:30 PM) Click Xem hình lớn Chương trình Hoa Mặt Trời kỳ 5 với chủ đề: “Tiếng Gọi Thiêng Liêng” kể về con đường tìm đến Phật pháp của Phật tử Luật sư Lê Thanh Sơn, Giám Đốc Văn Phòng Luật Sư AIC Lawyers & Consultants được tổ chức vào ngày 19/08/2014 (nhằm ngày 24/07 Giáp Ngọ) trong khóa tu Phật thất lần thứ 77 đã đem đến nhiều trải nghiệm sâu sắc đến quý Phật tử. Đã có thời gian du học tại Mỹ và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp, từng được phó Tổng Thống Mỹ trao bằng công dân danh dự của nước này, thế nhưng ông vẫn quay về quê hương để cống hiến cho đất nước, cũng như tìm về nguồn cội tâm linh của mình. Trong thời gian hành nghề luật sư, Phật tử Thanh Sơn đã đối diện với rất nhiều hoàn cảnh và con người khác nhau. Trước những thực trạng xã hội cũng như mặt trái của cuộc sống, ông cảm thấy chán nản, thất vọng và mất dần niềm tin vào cuộc sống. Từ đó ông đi tìm một niềm tin tâm linh. Là một người theo chủ nghĩa vô thần, ông bắt đầu đặt niềm tin vào tôn giáo. Trải qua một khoảng thời gian tìm hiểu một vài tôn giáo khác nhưng những triết lý này không đáp ứng được những thắc mắc cũng như hoàn toàn không phù hợp với suy nghĩ và nhận thức của ông. Như ánh sáng nằm cuối con đường, Luật sư tình cờ nghe được một đĩa giảng Phật pháp và ông quay về với nguồn cội tâm linh của dân tộc, cuối cùng Luật sư Thanh Sơn đã chọn đạo Phật như một con đường đi cho đời mình. Ông bắt đầu để tâm tìm hiểu và nghiên cứu Phật pháp. Đến với đạo bằng cái nhìn của một nhà nghiên cứu khoa học xã hội, chỉ bị thuyết phục khi những lập luận và lý thuyết tôn giáo phù hợp với thực tiễn xã hội, phù hợp với khoa học và giải quyết được những trăn trở và thắc mắc mà bản thân đặt ra. Sau khi tìm tòi nghiên cứu các bài pháp thoại của các vị giảng sư, Luật sư đã hiểu ra được nhiều vấn đề cũng như những thắc mắc mà lâu nay chưa được tháo gỡ. Tư duy, lối sống và nếp suy nghĩ của ông cũng đã đổi thay từ lúc đó. Con đường sáng như đang mở ra phía trước. Sau một thời gian tìm hiểu Đạo Phật, một nhân duyên tình cờ khiến luật sư Thanh Sơn tìm đến một ngôi chùa thuộc hai làng Kênh và An Lạc - tỉnh Hà Nam, ông đã phát tâm xây dựng lại ngôi Tam Bảo tại nơinày. Đây là một ngôi chùa hoang phế từ lâu và nhân dân trong vùng cũng chưa có cơ hội để tìm hiểu Phật pháp. Trải qua nhiều khó khăn, gian khổ ông đã tạo được niềm tin cho bà con trong vùng cũng như thỉnh Tăng Ni về trụ xứ và tổ chức đạo tràng, khuyến khích mọi người đến chùa tu tập. Luật sư Thanh Sơn đã ứng dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống và công việc. Trên cương vị của một luật sư, ông luôn cố gắng bảo vệ cái thiện và tránh xa cái ác, hóa giải những xung đột của gia đình gia chủ, khiến cho nhiều người tìm được hạnh phúc. Ông đã dùng đạo đức để nâng nghề nghiệp mình lên một tầm cao mới, ý nghĩa hơn và tốt đẹp hơn. Ngoài ra ông còn dùng kiến thức học được để bảo vệ và xiển dương Phật pháp. Cách sống và hành xử của ông đã tác động đến gia đình, bạn bè và những người xung quanh làm cho mọi người ngày càng hướng về điều tốt đẹp. Kể từ khi tìm hiểu đạo Phật, cuộc đời ông đã có hướng đi mới, luôn tìm được sự tự tin, lạc quan, yêu đời. Chứng minh và tham dự chương trình Hoa Mặt Trời, Thượng tọa Thích Chân Tính, trụ trì chùa Hoằng Pháp, trưởng ban tổ chức khóa tu cũng đã có đôi lời nhận xét. Đạo Phật là cội nguồn tâm linh của dân tộc Việt Nam. Đạo Phật đã có mặt tại Việt Nam gần 2000 năm, đã có những thời đại đạo Phật được xem là quốc giáo, từ vua cho đến quan dân ai cũng thấm nhuần Phật pháp và sống theo lời Phật dạy. Thời kỳ nào Phật giáo phát triển thì thời kỳ ấy đất nước cũng phát triển và bền vững nhất. Thế nhưng qua những năm tháng thời gian, gốc rễ tâm linh của dân tộc đã bị lung lay, đạo Phật dần bị lai tạp làm sai lệch đi giá trị cao đẹp vốn có, khiến cho những người tri thức rời bỏ, xa lánh Đạo Phật. Nhiệm vụ của người con Phật là phải xây dựng ngôi chùa tâm linh trong tâm của mỗi người, làm sao để mọi người hiểu được Phật pháp và ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống. Một ngôi chùa không phải là nơi chỉ để cúng bái và cầu nguyện mà là nơi học tập Phật pháp. Người Phật tử là một Hoằng Pháp Viên đem ánh sáng chân lý để truyền bá đến mọi người. Luật sư Thanh Sơn là một người có nhiều căn lành nên đã nhận chân được chân lý và quay lại với Phật pháp. Đó là một điều hết sức may mắn. Đến với Đạo Phật là đến với con đường trí tuệ, niềm tin của người con Phật nên dựa vào trí tuệ của văn, tư, tu thì niềm tin đó mới vững bền. Chúng ta nên quay về với nguồn cội tâm linh của dân tộc mình, chính quyền ở mỗi địa phương nên xây dựng một ngôi chùa tâm linh để mọi người quay về nương tựa. Thượng tọa cũng nhắc lại lời nhắn nhủ của Luật sư Thanh Sơn. Những Phật tử tham dự khóa tu Phật thất lần thứ 77 này đang có một cơ hội rất lớn để tìm hiểu Phật pháp và tu tập cùng nhau. Mỗi người cần tinh tấn hơn và nên cố gắng học tập Phật pháp, xây dựng cho mình một ngôi chùa tâm linh và đem những điều mình hiểu hướng dẫn cho mọi người thì đạo Phật mới có thể trường tồn và phát triển. Chương trình kết thúc trong niềm hỷ lạc của toàn thể hội chúng. Sau đây là một số hình ảnh ghi nhận: BBT Website

Điều nghịch lý của ngày nay

...Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm theo. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường xuyên. Điều nghịch lý của thời đại ngày nay là chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng sự kiên nhẫn lại ngắn hơn, ta có những đại lộ rộng lớn hơn nhưng cái nhìn lại nhỏ hẹp hơn. Chúng ta tiêu xài nhiều hơn nhưng có được ít hơn, mua sắm nhiều hơn nhưng thưởng thức lại kém hơn. Ta có căn nhà to rộng hơn nhưng gia đình nhỏ bé hơn; có nhiều tiện nghi hơn nhưng thời giờ ít ỏi hơn. Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn nhưng hiểu biết lại giảm đi, ta dư thừa kiến thức nhưng lại thiếu sự xét suy; ta có thêm nhiều nhà chuyên môn nhưng cũng thêm biết bao nhiêu là rắc rối, có thêm thuốc men nhưng sự lành mạnh lại càng sụt giảm. Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm theo. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường xuyên. Chúng ta biết cách kiếm sống nhưng không mấy ai biết sống. Một đời người được kéo dài hơn nhưng chỉ là cộng thêm năm tháng mà thôi. Chúng ta đã lên đến mặt trăng và trở về trái đất, nhưng rất khó bước qua bên kia đường để chào người hàng xóm mới. Ta chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc lớn lao nhưng rất ít việc tốt lành. Không khí chung quanh ta trong sạch hơn nhưng tâm hồn ta càng thêm ô nhiễm. Chúng ta chia cắt được một hạt nguyên tử nhưng chưa phá được thành kiến của chính mình. Chúng ta viết nhiều hơn nhưng học được ít hơn. Chúng ta có nhiều dự án hơn nhưng hoàn tất ít hơn. Chúng ta biết cách làm việc thật nhanh chóng nhưng không biết cách đợi chờ. Chúng ta thiết kế nhiều máy điện toán chứa thật nhiều dữ kiện, in ra bao nhiêu tài liệu, nhưng sự truyền thông giữa con người lại càng sút kém đi. Ngày nay là thời đại của mì ăn liền, tiêu hoá chậm, con người to lớn nhưng chí khí rất nhỏ, lợi nhuận thì rất sâu mà tình người thì rất cạn. Đây là thời đại của hai đầu lương nhưng trăm ngàn ly dị, nhà cửa khang trang nhưng đổ vỡ trong gia đình. Đây là thời đại của những mặt hàng trưng bày ngoài cửa tiệm thì rất nhiều, nhưng trong nhà kho lại không có một đồ vật nào. Đây là thời đại mà kỹ thuật có thể mang lá thư này đến thẳng với bạn và bạn cũng hoàn toàn tự do để chọn đọc nó hay xoá bỏ đi... Nhưng xin bạn hãy nhớ bỏ thì giờ ra với người thương, vì họ sẽ không có mặt với ta mãi mãi. Hãy nhớ chọn những lời dễ thương với những ai đang ngước nhìn bạn nhiều ngưỡng phục, vì cô hay cậu bé đó rồi cũng sẽ lớn lên và rời xa ta. Hãy nhớ ôm chặt người gần bên, vì đó là một món quà vô giá mà ta có thể ban tặng cho người khác, khi nó được xuất phát từ đáy tim mình. Hãy nhớ nắm tay nhau và trân quý phút giây này, vì biết rằng thời gian sẽ không ở với ta mãi mãi. Hãy có thì giờ để thương nhau, để lắng nghe nhau, và nhất là hãy chia sẻ với nhau những ý tưởng đẹp nhất trong tâm mình. Và nhất là bạn hãy luôn nhớ rằng, cuộc sống không phải được đo lường bằng con số hơi thở của mình, mà bằng những giây phút kỳ diệu trong cuộc đời đã mang hơi thở ấy bay cao. Dr. Bob Moorehead (trích Đức Phật Bên Trong – Nguyễn Duy Nhiên tuyển dịch)Cập nhật: (26/07/2013 01:32 AM) Click Xem hình lớn ...Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm theo. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường xuyên. Điều nghịch lý của thời đại ngày nay là chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng sự kiên nhẫn lại ngắn hơn, ta có những đại lộ rộng lớn hơn nhưng cái nhìn lại nhỏ hẹp hơn. Chúng ta tiêu xài nhiều hơn nhưng có được ít hơn, mua sắm nhiều hơn nhưng thưởng thức lại kém hơn. Ta có căn nhà to rộng hơn nhưng gia đình nhỏ bé hơn; có nhiều tiện nghi hơn nhưng thời giờ ít ỏi hơn. Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn nhưng hiểu biết lại giảm đi, ta dư thừa kiến thức nhưng lại thiếu sự xét suy; ta có thêm nhiều nhà chuyên môn nhưng cũng thêm biết bao nhiêu là rắc rối, có thêm thuốc men nhưng sự lành mạnh lại càng sụt giảm. Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm theo. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường xuyên. Chúng ta biết cách kiếm sống nhưng không mấy ai biết sống. Một đời người được kéo dài hơn nhưng chỉ là cộng thêm năm tháng mà thôi. Chúng ta đã lên đến mặt trăng và trở về trái đất, nhưng rất khó bước qua bên kia đường để chào người hàng xóm mới. Ta chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc lớn lao nhưng rất ít việc tốt lành. Không khí chung quanh ta trong sạch hơn nhưng tâm hồn ta càng thêm ô nhiễm. Chúng ta chia cắt được một hạt nguyên tử nhưng chưa phá được thành kiến của chính mình. Chúng ta viết nhiều hơn nhưng học được ít hơn. Chúng ta có nhiều dự án hơn nhưng hoàn tất ít hơn. Chúng ta biết cách làm việc thật nhanh chóng nhưng không biết cách đợi chờ. Chúng ta thiết kế nhiều máy điện toán chứa thật nhiều dữ kiện, in ra bao nhiêu tài liệu, nhưng sự truyền thông giữa con người lại càng sút kém đi. Ngày nay là thời đại của mì ăn liền, tiêu hoá chậm, con người to lớn nhưng chí khí rất nhỏ, lợi nhuận thì rất sâu mà tình người thì rất cạn. Đây là thời đại của hai đầu lương nhưng trăm ngàn ly dị, nhà cửa khang trang nhưng đổ vỡ trong gia đình. Đây là thời đại của những mặt hàng trưng bày ngoài cửa tiệm thì rất nhiều, nhưng trong nhà kho lại không có một đồ vật nào. Đây là thời đại mà kỹ thuật có thể mang lá thư này đến thẳng với bạn và bạn cũng hoàn toàn tự do để chọn đọc nó hay xoá bỏ đi... Nhưng xin bạn hãy nhớ bỏ thì giờ ra với người thương, vì họ sẽ không có mặt với ta mãi mãi. Hãy nhớ chọn những lời dễ thương với những ai đang ngước nhìn bạn nhiều ngưỡng phục, vì cô hay cậu bé đó rồi cũng sẽ lớn lên và rời xa ta. Hãy nhớ ôm chặt người gần bên, vì đó là một món quà vô giá mà ta có thể ban tặng cho người khác, khi nó được xuất phát từ đáy tim mình. Hãy nhớ nắm tay nhau và trân quý phút giây này, vì biết rằng thời gian sẽ không ở với ta mãi mãi. Hãy có thì giờ để thương nhau, để lắng nghe nhau, và nhất là hãy chia sẻ với nhau những ý tưởng đẹp nhất trong tâm mình. Và nhất là bạn hãy luôn nhớ rằng, cuộc sống không phải được đo lường bằng con số hơi thở của mình, mà bằng những giây phút kỳ diệu trong cuộc đời đã mang hơi thở ấy bay cao. Dr. Bob Moorehead (trích Đức Phật Bên Trong – Nguyễn Duy Nhiên tuyển dịch)

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Albert Einstein và đạo Phật

Albert Einstein và đạo PhậtAlbert Einstein và đạo Phật Gần đây có nhiều độc giả thắc mắc về mối liên hệ giữa nhà khoa học thiên tài Albert Einstein (1879-1955) và Đạo Phật như thế nào? Vì họ thấy đây đó có nhiều trích dẫn lời phát biểu của ông về Đạo Phật. Bài viết sau đây sẽ đề cập đến mối liên hệ ấy. Dù chưa đầy đủ, nhưng hy vọng rằng nó sẽ là mấu chốt để chúng ta phăng tìm những tư liệu chi tiết về sau: Ông Albert Einstein, sinh ngày 14 tháng 03 năm 1879 tại thành phố Ulm, Đức quốc, trong một gia đình làm nghề thủ công và tiểu thương. Bố là một người giỏi về hóa học và mẹ là người có khiếu về âm nhạc. Năm 1894, gia đình ông di cư sang sống tại Ý. Ông được bố gởi đi học ở Thụy Sĩ và đã tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại Đại học Zurich. Sau khi ra trường, ông được mời dạy toán và vật lý tại một trường bách khoa ở Thụy Sĩ, ngoài việc dạy học, ông dành hết thời gian còn lại để nghiên cứu vật lý học và ông còn làm việc tại văn phòng thẩm tra cấp bằng sáng chế ở Berne, Thụy Sĩ. Năm 1905, ông gởi đăng bài "Lý thuyết tương đối hẹp" dài 5 trang trên tờ Physics. Bài báo nhanh chóng được chú ý và nó là tiếng nổ lớn của ngành khoa học về không gian và thời gian, ông đã phá vỡ các khái niệm tuyệt đối về không gian và thời gian của nhà vật lý học và toán học vĩ đại, Issaac Newton (1642-1727). Lập tức tên tuổi của ông được nhiều người biết tới và được xem là một khoa học gia nổi tiếng nhất vào thời điểm ấy. Năm 1911, Ông là giáo sư vật lý ở Prague. Năm 1913, ông được mời làm giám đốc Học Viện Vật Lý Hoàng Đế Wilhelm tại Berlin. Đến năm 1921, ông được trao giải thưởng Nobel về Vật lý học qua đề án nghiên cứu "Lý Thuyết Tương đối" (The Theory of Relativity). Trong thế chiến thứ nhất (1914-1918), ông từng bị tống giam vì tội "chống chiến tranh và ủng hộ hòa bình". Sau khi Adolf Hitler (1889-1945) trở thành quốc trưởng của Đức, ông ra sức chống lại chủ nghĩa phát xít và rời bỏ nước Đức sang sống tại Hoa Kỳ. Từ năm 1933 đến năm 1945, ông là giáo sư toán và lý tại Viện Cao học Princeton ở bang New Jersey. Phát xuất từ lòng căm thù chủ nghĩa phát xít mà ông đã giúp cho Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt (1882-1945) chế tạo bom nguyên tử và cuối cùng bị xem là "cha đẻ" của thứ vũ khí giết người này. Đây cũng là lý do mà về sau năm 1950, ông thành lập Viện Kiểm Soát Nguyên tử Quốc tế tại Hoa Kỳ. Ba thập niên cuối đời mình, ông dành thời gian để nghiên cứu về "Lý thuyết thống nhất giữa lực hấp dẫn và hiện tượng điện quang" (The Theory of unify gravitation and eletro-magnetism). Mặc dù bận rộn nghiên cứu và giảng dạy khoa học, nhưng ông Einstein vẫn dành thời gian nhất định để nghiên cứu triết học và tôn giáo, đặc biệt trong đó có Đạo Phật. Theo tài liệu "The World As I See It" (Trần thế khi tôi nhìn thấy nó, nhà xuất bản Philosophical Library, New York, 1949) và quyển "Ideas and Opinions" (Những Ý Kiến và Những Quan Điểm, nhà xuất bản Crown, NY, 1945) là hai tuyển tập những bài báo, bài tham luận về tôn giáo và khoa học mà ông Einstein viết từ đầu những năm ba mươi. Đáng chú ý trong tập này là các bài như "Religion and Science" (Tôn giáo và Khoa học), viết từ 1930; bài "Science, Philosophy & Religion, A Sumposium" (Khoa học, Triết học và Tôn giáo, một buổi hội thảo) viết năm 1941; bài "Religion and Science: Irreconcilable?" (Tôn giáo và Khoa học: không thể hòa giải được sao?) viết vào năm 1948. Theo các tài liệu trên thì chính A. Einstein tự xem mình là một người thuộc về tôn giáo. Tôn giáo của ông được người ta biết qua lý thuyết khoa học của ông. Ông bác bỏ sự thần thánh hóa trong tôn giáo, ông quan tâm đến đời sống con người ở hiện tại và ngay cả sau khi chết. Trong các buổi hội thảo về triết học và tôn giáo, có lúc ông trích dẫn lời của Chúa, rồi có khi ông dẫn lời trong kinh Phật. Quan điểm của ông về tôn giáo chưa bao giờ có hệ thống và nhất quán. Tuy nhiên, với trí tuệ sắc bén và lòng ngưỡng mộ của ông đối với các tôn giáo đã giúp cho ông hiểu đúng và chính xác về các tôn giáo mà ông để tâm nghiên cứu. Ông vẫn thường nhắc nhở các nhà khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho những khiếm khuyết của khoa học. Ông nói: "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science without religion is lame. Reigion without science is blind). Cũng theo các tài liệu trên cho thấy, ông đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... là những nhà Phật học nổi danh ở phương Tây. Nhờ nghiên cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy Đạo Phật như là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình, ngỏ hầu cắt ngang sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại. Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một lối sống mới, một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa với nhau như nước với sữa. Chính vì thấy rõ cái độc đáo đó mà ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó" (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science, becauseit embrances science as well as goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm). Dù những lý thuyết khoa học của ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm lòng nhân đạo và mến chuộng hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi với ông. Ông đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của mình đối với sự phát triển khoa học của nhân loại. Ông làm việc không biết mệt mỏi cho đến ngày qua đời. Ông mất vào lúc 1giờ 25 phút rạng sáng ngày 19 tháng 04 năm 1955 tại Princeton, Hoa Kỳ, hưởng thọ 76 tuổi. Ngày nay, đối với mọi tín đồ Phật Giáo trên khắp năm châu đều thành kính khi nhắc đến tên tuổi của ông, người đã từng góp phần khẳng định lại giá trị vĩnh cửu đối với Giáo lý của Đạo Phật. Gần đây có nhiều độc giả thắc mắc về mối liên hệ giữa nhà khoa học thiên tài Albert Einstein (1879-1955) và Đạo Phật như thế nào? Vì họ thấy đây đó có nhiều trích dẫn lời phát biểu của ông về Đạo Phật. Bài viết sau đây sẽ đề cập đến mối liên hệ ấy. Dù chưa đầy đủ, nhưng hy vọng rằng nó sẽ là mấu chốt để chúng ta phăng tìm những tư liệu chi tiết về sau: Ông Albert Einstein, sinh ngày 14 tháng 03 năm 1879 tại thành phố Ulm, Đức quốc, trong một gia đình làm nghề thủ công và tiểu thương. Bố là một người giỏi về hóa học và mẹ là người có khiếu về âm nhạc. Năm 1894, gia đình ông di cư sang sống tại Ý. Ông được bố gởi đi học ở Thụy Sĩ và đã tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại Đại học Zurich. Sau khi ra trường, ông được mời dạy toán và vật lý tại một trường bách khoa ở Thụy Sĩ, ngoài việc dạy học, ông dành hết thời gian còn lại để nghiên cứu vật lý học và ông còn làm việc tại văn phòng thẩm tra cấp bằng sáng chế ở Berne, Thụy Sĩ. Năm 1905, ông gởi đăng bài "Lý thuyết tương đối hẹp" dài 5 trang trên tờ Physics. Bài báo nhanh chóng được chú ý và nó là tiếng nổ lớn của ngành khoa học về không gian và thời gian, ông đã phá vỡ các khái niệm tuyệt đối về không gian và thời gian của nhà vật lý học và toán học vĩ đại, Issaac Newton (1642-1727). Lập tức tên tuổi của ông được nhiều người biết tới và được xem là một khoa học gia nổi tiếng nhất vào thời điểm ấy. Năm 1911, Ông là giáo sư vật lý ở Prague. Năm 1913, ông được mời làm giám đốc Học Viện Vật Lý Hoàng Đế Wilhelm tại Berlin. Đến năm 1921, ông được trao giải thưởng Nobel về Vật lý học qua đề án nghiên cứu "Lý Thuyết Tương đối" (The Theory of Relativity). Trong thế chiến thứ nhất (1914-1918), ông từng bị tống giam vì tội "chống chiến tranh và ủng hộ hòa bình". Sau khi Adolf Hitler (1889-1945) trở thành quốc trưởng của Đức, ông ra sức chống lại chủ nghĩa phát xít và rời bỏ nước Đức sang sống tại Hoa Kỳ. Từ năm 1933 đến năm 1945, ông là giáo sư toán và lý tại Viện Cao học Princeton ở bang New Jersey. Phát xuất từ lòng căm thù chủ nghĩa phát xít mà ông đã giúp cho Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt (1882-1945) chế tạo bom nguyên tử và cuối cùng bị xem là "cha đẻ" của thứ vũ khí giết người này. Đây cũng là lý do mà về sau năm 1950, ông thành lập Viện Kiểm Soát Nguyên tử Quốc tế tại Hoa Kỳ. Ba thập niên cuối đời mình, ông dành thời gian để nghiên cứu về "Lý thuyết thống nhất giữa lực hấp dẫn và hiện tượng điện quang" (The Theory of unify gravitation and eletro-magnetism). Mặc dù bận rộn nghiên cứu và giảng dạy khoa học, nhưng ông Einstein vẫn dành thời gian nhất định để nghiên cứu triết học và tôn giáo, đặc biệt trong đó có Đạo Phật. Theo tài liệu "The World As I See It" (Trần thế khi tôi nhìn thấy nó, nhà xuất bản Philosophical Library, New York, 1949) và quyển "Ideas and Opinions" (Những Ý Kiến và Những Quan Điểm, nhà xuất bản Crown, NY, 1945) là hai tuyển tập những bài báo, bài tham luận về tôn giáo và khoa học mà ông Einstein viết từ đầu những năm ba mươi. Đáng chú ý trong tập này là các bài như "Religion and Science" (Tôn giáo và Khoa học), viết từ 1930; bài "Science, Philosophy & Religion, A Sumposium" (Khoa học, Triết học và Tôn giáo, một buổi hội thảo) viết năm 1941; bài "Religion and Science: Irreconcilable?" (Tôn giáo và Khoa học: không thể hòa giải được sao?) viết vào năm 1948. Theo các tài liệu trên thì chính A. Einstein tự xem mình là một người thuộc về tôn giáo. Tôn giáo của ông được người ta biết qua lý thuyết khoa học của ông. Ông bác bỏ sự thần thánh hóa trong tôn giáo, ông quan tâm đến đời sống con người ở hiện tại và ngay cả sau khi chết. Trong các buổi hội thảo về triết học và tôn giáo, có lúc ông trích dẫn lời của Chúa, rồi có khi ông dẫn lời trong kinh Phật. Quan điểm của ông về tôn giáo chưa bao giờ có hệ thống và nhất quán. Tuy nhiên, với trí tuệ sắc bén và lòng ngưỡng mộ của ông đối với các tôn giáo đã giúp cho ông hiểu đúng và chính xác về các tôn giáo mà ông để tâm nghiên cứu. Ông vẫn thường nhắc nhở các nhà khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho những khiếm khuyết của khoa học. Ông nói: "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science without religion is lame. Reigion without science is blind). Cũng theo các tài liệu trên cho thấy, ông đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... là những nhà Phật học nổi danh ở phương Tây. Nhờ nghiên cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy Đạo Phật như là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình, ngỏ hầu cắt ngang sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại. Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một lối sống mới, một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa với nhau như nước với sữa. Chính vì thấy rõ cái độc đáo đó mà ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó" (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science, becauseit embrances science as well as goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm). Dù những lý thuyết khoa học của ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm lòng nhân đạo và mến chuộng hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi với ông. Ông đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của mình đối với sự phát triển khoa học của nhân loại. Ông làm việc không biết mệt mỏi cho đến ngày qua đời. Ông mất vào lúc 1giờ 25 phút rạng sáng ngày 19 tháng 04 năm 1955 tại Princeton, Hoa Kỳ, hưởng thọ 76 tuổi. Ngày nay, đối với mọi tín đồ Phật Giáo trên khắp năm châu đều thành kính khi nhắc đến tên tuổi của ông, người đã từng góp phần khẳng định lại giá trị vĩnh cửu đối với Giáo lý của Đạo Phật.